 
            
Trong Trung Luận (Mādhyamika) ngài Long Thọ (Nāgārjuna) không dùng các thuật ngữ quá khứ, hiện tại, tương lai để khảo xét về 3 thời gian. Thay vì vậy, Ngài dùng 3 mối liên hệ thời gian, đó là 'sớm hơn', 'muộn hơn' và 'cùng lúc với'. Quả thực Ngài cố gắng diễn tả rằng, sản phẩm của những thứ cụ thể là không thể có, bởi vì nó không thể xuất hiện trong bất cứ phút chốc nào cả và tại vì mối liên hệ thời gian giữa những sự kiện không thể nào thiết lập được. Trong chương 11 của Trung Luận (Mādhyamika), ngài Long Thọ (Nāgārjuna) phát biểu: "Tất cả các pháp đều là không. Tại sao? Tại vì chúng không sớm hơn, không muộn hơn, cũng không phải cùng lúc như một hiệu ứng. Khi nó được gọi là 'sớm hơn', 'muộn hơn' và 'cùng lúc với', những sự kiện như thế là không thể có. Làm sao các sự kiện có thể được tạo ra bởi các nguyên nhân? Cho rằng một nguyên nhân có trước một kết quả là không đúng. Tại sao? Nếu một nguyên nhân tồn tại sớm hơn và từ đó mà một kết quả được tạo ra muộn hơn, ở đó ngay từ đầu đã không có kết quả thì cái gì là nguyên nhân của nó? Nếu một kết quả có trước một nguyên nhân, thế thì kết quả vốn đã được thiết lập ngay khi không có nguyên nhân, vậy thì tại sao nó cần đến một nguyên nhân? Nếu một nguyên nhân và một kết quả tồn tại cùng lúc, ở đó sẽ không có sản phẩm thuộc về nhân quả. Ví dụ, những cái sừng của con bò được mọc ra cùng lúc; sừng bên trái và sừng bên phải không phải là nguyên nhân của nhau. Cho nên cái gọi là nguyên nhân không thể là kết quả của nguyên nhân, bởi vì chúng được tạo ra cùng một lúc. Vì thế, ba mối quan hệ thời gian giữa nguyên nhân và kết quả là không có thể đạt được".[24]
Rõ ràng là sản phẩm thuộc về nhân quả phải được thể hiện trong những mối liên hệ thời gian nhất định: một nguyên nhân sẽ là sớm hơn, muộn hơn, hoặc là cùng lúc với một kết quả. Nhưng ngài Long Thọ muốn chỉ ra rằng, tính trước, sau và cùng lúc của những khoảnh khắc thời gian đều là không, cho nên chức năng của sản phẩm nhân quả không thể được thiết lập. Bởi vì nhân quả là không, tất cả mọi pháp đều không. Bởi vì tất cả mọi thứ đều là những nguyên nhân và kết quả. Ngài Long Thọ nhắm đến việc chứng minh rằng tất cả mọi pháp đều không. Bởi vì tất cả đều bị thiếu những bản chất của chính nó, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Đây chính là học thuyết Duyên Khởi (pratītyasamutpāda) được trình bày trong Trung Luận (Mādhyamika) của ngài Long Thọ.
"Thời Gian" Được Diễn Tả trong Kinh Vua Milinda Vấn Đạo
Vua Milinda Vấn Đạo (Milindapañha) cho chúng ta thấy có sự tiến bộ rõ rệt về mối quan tâm đến vấn đề thời gian. Vua Milinda hỏi Tỳ-kheo Na Tiên khá chi tiết về vấn đề này, và được trả lời rằng, có thời gian thuộc về quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi nghiên cứu về khái niệm thời gian trong Vua Milinda Vấn Đạo, ông A.B. Keith phát biểu: "Điều này được giải thích trong ý nghĩa có những sự sắp đặt[25](saṃkhāra), là quá khứ trong ý nghĩa đang bị chấm dứt sự tồn tại hoặc là đang bị tan rã, hoặc là hoàn toàn đã thay đổi; đối với chúng thời gian là không. Nhưng cũng có những duyên mà bây giờ đang tạo ra kết quả; hoặc ngược lại, những duyên ấy sẽ dẫn đến sự tái lập cá thể, đối với những duyên ấy thì thời gian là có. Đối với những người chết đi rồi sau đó tái sanh thì có thời gian, còn đối với những người chết đi mà không còn tái sanh nữa thì không có thời gian; và với những người hoàn toàn được giải thoát nhờ đạt đến Niết bàn (Nirvaṇa) và chỉ có thân thể của họ bị chết đi thì ở đó thời gian tuyệt nhiên không có".
Hơn nữa, rõ ràng là không có khả năng tìm ra điểm khởi đầu của thời gian, hoặc là điểm tột cùng trong quá khứ; điều này được làm rõ thông qua phép loại suy về hạt giống, trái cây, hạt giống; quả trứng, con gà mái, quả trứng; và cái vòng của mắt, màu sắc, sự nhìn, sự tiếp xúc, cảm giác, sự mong muốn, hành động và những kết quả của hành động, và một con mắt trong sự sinh ra ở tương lai. Cuối cùng, Tỳ kheo Na Tiên nhấn mạnh khi phản đối ý kiến của vua cho rằng, có thể có sự gián đoạn giữa hiện tại và quá khứ, và tương lai thì tiếp diễn không ngừng. Điều đó không thể có được, quá khứ đã chuyển tiếp đến hiện tại và hiện tại chuyển tiếp đến tương lai.[26]
A.B. Keith tin rằng, những ý tưởng trong Vua Milinda Vấn Đạo xuất hiện dưới một hình thức khác ở trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa). Những người theo Nhất Thiết Hữu Bộ vẫn vững tin với việc duy trì sự tồn tại của mọi thứ trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong khi những người theo Phân Biệt Thuyết Bộ (Vibhajyavādins) thì phân biệt phương thức bình thường của chúng giữa: (1) những yếu tố hiện tại và những gì trong quá khứ chưa tạo ra quả, những thứ đó là hiện hữu; và (2) những yếu tố tương lai và những thứ trong quá khứ đã tạo ra quả, những thứ đó là không hiện hữu.[27]
"Thời Gian" Được Diễn Tả trong Kinh Điển Đại Thừa
Thời gian được diễn tả trong kinh điển Đại thừa (Mahāyana) có thể xem xét từ quan điểm về ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai đối với những kiếp của thời gian trong một hệ thế giới. Quan điểm này được xem là đặc biệt trong Tam Tạng Kinh Điển bằng chữ Hán. Lewis R. Lancaster cho rằng, trong những kinh điển Đại Thừa ở thời kỳ đầu, khi bàn về thời gian (adhvan) người ta không đề cập đến khái niệm này ở dạng số ít mà chỉ ở dạng số nhiều (3 thời: quá khứ, hiện tại và tương lai): "Vấn đề ba thời đã khiến nhiều học giả Phật giáo bế tắc một thời gian dài trước khi có sự thăng tiến trong kinh điển Đại Thừa và những trường phái Đại Thừa, như những người theo thuyết Thí Dụ Bộ (Dārṣṭānika) đã phát biểu: "Ba thời hiện hữu và thường còn trong khi những thực thể do duyên sinh và biến chuyển qua 3 thời thì vô thường. Họ đã diễn tả quan điểm của họ bằng cách đưa ra phép loại suy về ba căn nhà liền kề nhau. Từ căn nhà thứ nhất một người xuất hiện và đi qua căn nhà thứ hai, có nghĩa là người đó đã từ bỏ tương lai và đi vào hiện tại, rồi người đó đi từ căn nhà thứ hai sang căn nhà thứ ba, có nghĩa là anh ta đã đi từ hiện tại đến quá khứ. Người ấy là vô thường và là nhân tố chuyển đổi trong khi ba căn nhà thời gian thì cố định và luôn sẵn sàng đón nhận dòng chảy liên tục của những thứ vô thường.[28]
Rõ ràng thời gian được trình bày trong kinh điển Đại Thừa khó hiểu hơn trong Phật giáo Nguyên Thủy. Kinh điển Đại Thừa chỉ đơn thuần phát biểu về những gì đã được hiểu và được Đức Phật thừa nhận[29], mà không trình bày như một vấn đề để được xác chứng hay là bác bỏ những khái niệm về thời gian trong Phật giáo Nguyên Thủy, chỉ là lời phát biểu về thời gian là gì. Đức Phật, một đấng Giác Ngộ, Ngài biết tất cả mọi vấn đề, với năng lực siêu nhiên đã được phát triển thông qua thiền định (samādhi), đối với vấn đề này Ngài có thể nhìn xuyên suốt và hiểu rõ bản chất cũng như cốt tủy của ba thời.[30]
Khi khái niệm ba thời được nhìn theo cách đặc biệt này, chúng được xem như là bình đẳng, không phân biệt, không chia cắt. Những thời gian ấy không đối chọi với nhau, bởi vì ở đó không có thứ gì trong hiện tại là khác hay tách biệt với tương lai. Đây là trường hợp mà trong các kinh thường diễn tả, đối với những người thiếu sự hiểu biết, ba sự phân chia về thời gian, ba dấu hiệu đặc trưng của thời gian đều bị giới hạn trong trần thế này; nhưng ở một mức độ cao hơn, mức độ siêu việt, những dấu hiệu ấy tỏ ra là một sự ảo tưởng. Vì thế, Đức Phật dạy rằng, ba thời chỉ sở hữu một dấu hiệu, dấu hiệu của sự thiếu các đặc tính để phân biệt.[31]
Trong Đại Trí Độ Luận, luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā) do Ngài Cưu Ma La Thập biên soạn, phát biểu rằng, những ai không có Chánh Biến Tri sẽ gặp chướng ngại khi họ cố gắng có được sự nhận thức về ba thời.[32] Nó vượt ra ngoài khả năng của người bình thường. Hơn nữa, trong Kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra) chỉ ra rằng, vũ trụ của chúng ta là một trong số hàng ngàn vũ trụ của các hệ thế giới. Tất cả những thế giới này không có chung một cấp độ, cho nên thế giới mà chúng ta đang sống được bao trùm bên trong một cảnh giới khác, nếu nó mở rộng ra thì vượt ra ngoài những gì chúng ta có thể hiểu được. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả: "Nếu chúng ta thêm vào tất cả những ngày và đêm của những hệ thế giới cho đến tổng số là một kiếp (kalpa), vô số năm này bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Và nếu người nào sống ở cảnh giới của Phật A Di Đà (Amitābha) một kiếp thì bằng một ngày một đêm ở cõi Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasaṃhata), và một kiếp (kalpa) ở cõi Kim Cang Tát Đỏa thì bằng một ngày một đêm ở cõi Pháp Tướng (Dharmaketu), và cứ như vậy cho đến hàng trăm, hàng triệu cảnh giới chư Phật".[33]
Và thế là các kinh lại một nữa đưa chúng ta trở về với sự trống rỗng của thời gian, cũng như là sự khó hiểu của nó, sự vắng mặt những dấu hiệu nhận dạng. Kinh Hoa Nghiêm còn chỉ ra rằng, khi Đức Phật nhập vào chánh định (samādhi) thì Ngài thấy tất cả ba thời đều bằng nhau và như nhau.[34]
Ở đây, thời gian được hiểu như là toàn bộ sự kéo dài của thực tại. Nó không phải là một khoảng thời gian ngắn như là sát na (kṣaṇa) đã được diễn tả trong Phật giáo Nguyên Thủy (Theravāda) và trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá. Vì thế, khái niệm thời gian ở trong kinh điển Đại Thừa có thể được định hình chỉ khi sự thay đổi trong thực tế hay là sự tiếp nối của những sự kiện được diễn ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu vắng mặt sự thay đổi trong ý nghĩa về tính tạm thời thì ở đó sẽ không có khái niệm thời gian.
Thời gian trong ý nghĩa này là một khái niệm phát sinh. Ở cấp độ thực tại tuyệt đối (tathatā), không có sự thay đổi nào được thừa nhận, dù là trong Đại Trí Độ Luận, luận về Bát-nhã ba-la-mật-đa của ngài Cưu Ma La Thập (Kumārajīva) hay là trong Cứu Cánh Nhất Thừa Luận (Uttaratantra) của Ngài Di Lặc (Maitreya). Do vậy, nếu thời gian thiếu những dấu hiệu nhận dạng, làm sao chúng ta có thể nói có thời gian? Khi Lancaster nói rằng: "Nó là thực tại toàn thể, là vũ trụ đích thực", ông ấy xem thời gian như là toàn bộ sự kéo dài của thực tại.[35]
Sát Na Liên Quan Đến Ý Nghĩa của Cuộc Sống
Thông qua những nghiên cứu về một vài nguồn tư liệu chính yếu bàn về quan điểm thời gian trong Phật giáo, chúng ta có thể có được sự hiểu biết căn bản về khái niệm sát na (kṣaṇa). Trong Phật giáo Nguyên Thủy, sát na được diễn tả như là 'duyên', và 'thời gian' hay là 'tính nhất thời (khaṇa)'. Như thế, khái niệm về thời gian trong Phật giáo Nguyên Thủy chỉ ra rằng, mạng sống rất là ngắn ngủi. Vì vậy, hành giả phải luôn ý thức về mỗi sát na để thực hành những hạnh lành (dhamma). Hành giả cần phải dành nhiều thời gian cho việc thực tập giáo pháp để có được lợi ích cho tự thân và tha nhân. Hơn nữa, mặc dù sát na (kṣaṇa) chỉ kéo dài trong phút chốc (ekacitakkhaṇitka), nhưng những thiện nghiệp mà chúng ta đã tạo sẽ đem đến những quả lành trong tương lai gần, nếu chúng ta thực hành giáo pháp (dhamma) liên tục từ sát na này đến sát na khác.
Theo như trong luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa) thì một sát na là bằng 0,01333 giây, còn trong luận A-tỳ-đàm (Abhidhārmika) thì khoảng thời gian mà một lực sĩ khảy ngón tay là bằng 65 sát na (kṣaṇa). Đây là khoảng thời gian tối thiểu cần thiết đối với những đặc điểm của sát na để có thể đạt đến những hoạt dụng của nó. Nếu không có khoảng thời gian tối thiểu cần thiết này thì các pháp (dharmas) không bao giờ được hình thành. Từ những quan điểm của Buddhadeva, thời gian được diễn tả thông qua quá khứ, hiện tại và tương lai đối với một pháp, tạo thành một vòng tròn. Đến ngài Long Thọ (Nāgājuna) thì thời gian được xem như là một pháp (dharma). Bởi vì tất cả các pháp, chúng phụ thuộc lẫn nhau, đều không có tự tánh, chúng là không, cho nên thời gian cũng là không.
Chính vì lẽ này, chúng ta không thể tìm thấy điểm khởi đầu hay là điểm kết thúc của nó. Hơn nữa, trong kinh điển Đại thừa thì chúng ta không thể nào nhận ra được thời gian vì nó vượt lên trên khả năng nhận biết thuộc ý thức của chúng ta. Do nó thiếu những đặc tính để phân biệt nên chúng ta không thể nào thông suốt và thấu hiểu về ba thời, chỉ có Đức Phật, đấng Chánh Biến Tri, Người có được năng lực siêu phàm thông qua thiền định (samādhi) mới thấu hiểu được.
Cuối cùng, từ chính những kinh nghiệm cá nhân của chúng tôi và sự hiểu biết thông qua việc tìm hiểu về quan điểm thời gian trong kinh điển Phật giáo, chúng tôi hiểu ra rằng, sát na (kṣaṇa) là một khoảng thời gian rất ngắn, thậm chí là nó ngắn hơn cả khoảng thời gian mà một ý niệm sinh khởi. Tuy nhiên, nó là khoảng thời gian cần thiết để cho các pháp vận hành. Rõ ràng là dù cho mạng sống của chúng ta thọ hay yểu thì đều được cấu thành bởi những sát na đơn lẻ. Bởi vì chỉ có sát na hiện tại là có thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy sống trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm. Làm được như thế thì trong tương lai, nhiều điều tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ đến với chúng ta.
Thông tin: TT-Phật Giáo/Quan Âm Tự
Ý kiến bạn đọc
 Bão số 10 và mưa lũ khiến 26 người chết và mất tích, 44.230 ngôi nhà bị hư hỏng, tốc mái
        Bão số 10 và mưa lũ khiến 26 người chết và mất tích, 44.230 ngôi nhà bị hư hỏng, tốc mái
     TPHCM – NEW YORK
        TPHCM – NEW YORK
     Toàn cảnh hành trình cung thỉnh xá lợi Đức Phật về tôn trí tại chùa Thanh Tâm
        Toàn cảnh hành trình cung thỉnh xá lợi Đức Phật về tôn trí tại chùa Thanh Tâm
     BỨC TÂM THƯ
        BỨC TÂM THƯ
     Chuyện ly kỳ quanh những cây nến cháy 640 năm
        Chuyện ly kỳ quanh những cây nến cháy 640 năm
     Kinh Hiền Ngu bằng thơ lục bát dài nhất Việt Nam
        Kinh Hiền Ngu bằng thơ lục bát dài nhất Việt Nam
     Vĩnh Long: Ban Trị sự GHPGVN tỉnh thăm, sách tấn chư hành giả Ni an cư tại chùa Liên Hoa
        Vĩnh Long: Ban Trị sự GHPGVN tỉnh thăm, sách tấn chư hành giả Ni an cư tại chùa Liên Hoa
     Mỗi tỉnh, thành phố sau sáp nhập chỉ có một Trường Trung cấp Phật học
        Mỗi tỉnh, thành phố sau sáp nhập chỉ có một Trường Trung cấp Phật học
     Ban Trị sự GHPGVN Q.Phú Nhuận họp mặt cuối nhiệm kỳ X (2021-2026)
        Ban Trị sự GHPGVN Q.Phú Nhuận họp mặt cuối nhiệm kỳ X (2021-2026)
     Vấn an Trưởng lão Hòa thượng Thích Như Niệm - Phó Thư ký Hội đồng Chứng minh
        Vấn an Trưởng lão Hòa thượng Thích Như Niệm - Phó Thư ký Hội đồng Chứng minh
     Cà Mau: Trường Trung cấp Phật học trao Bằng tốt nghiệp đến Tăng Ni sinh khóa VI
        Cà Mau: Trường Trung cấp Phật học trao Bằng tốt nghiệp đến Tăng Ni sinh khóa VI
     Xác lập kỷ lục bánh Pizza chay lớn nhất Việt Nam
        Xác lập kỷ lục bánh Pizza chay lớn nhất Việt Nam
     Công đức ăn chay
        Công đức ăn chay
     quán chay cho mùa Phật đản tại TP HCM
        quán chay cho mùa Phật đản tại TP HCM
     Ăn Chay rau Trích kinh Đại Bát Niết Bàn trong phẩm Tứ Tướng Thứ Bảy
        Ăn Chay rau Trích kinh Đại Bát Niết Bàn trong phẩm Tứ Tướng Thứ Bảy
    VẬN ĐỘNG ĐÚC ĐẠI HỒNG CHUNG VÀ TRỐNG BÁT NHÃ QUAN ÂM TỰ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni PhậtKính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni  Kính thưa Quý Đạo Hữu Phật tử gần xaXuân Ất Tỵ  Nắng giao mùa còn đọng những thềm hoa. Trong cái mênh mang sâu lắng nhịp THƯ NGỎ VẬN ĐỘNG ĐÚC ĐẠI HỒNG CHUNG VÀ...
 Bốn Điều Thuận Lợi  _ Thầy  Thích Pháp Hòa chùa Phước Hải
        Bốn Điều Thuận Lợi  _ Thầy  Thích Pháp Hòa chùa Phước Hải
     Con Đường Tích Đức _ Tạo Phước _ Thầy Thích Pháp Hòa
        Con Đường Tích Đức _ Tạo Phước _ Thầy Thích Pháp Hòa
     Mật Tông Có Phải Là Tà Giáo Không  vấn đáp   Thầy Thích Pháp Hòa
        Mật Tông Có Phải Là Tà Giáo Không  vấn đáp   Thầy Thích Pháp Hòa
     Một chút nóng giận, cả đời hối hận   Thầy Thích Pháp Hòa
        Một chút nóng giận, cả đời hối hận   Thầy Thích Pháp Hòa
     Để tâm và quan tâm là chìa khóa giữ gìn hạnh phúc   Thầy Thích Pháp Hòa
        Để tâm và quan tâm là chìa khóa giữ gìn hạnh phúc   Thầy Thích Pháp Hòa
     Đừng Đi Chùa Nếu Chưa Biết Điều Này quan trọng _ Thầy Thích Pháp Hòa
        Đừng Đi Chùa Nếu Chưa Biết Điều Này quan trọng _ Thầy Thích Pháp Hòa
     Sống đúng đạo, may mắn tự khắc đến   Thầy Thích Pháp Hòa
        Sống đúng đạo, may mắn tự khắc đến   Thầy Thích Pháp Hòa
     Thiền, Nghệ thuật đốt nhang và trà đạo
        Thiền, Nghệ thuật đốt nhang và trà đạo
     Trà Đạo Nhật Bản – Lịch sử hình thành và trường phái
        Trà Đạo Nhật Bản – Lịch sử hình thành và trường phái
     Thiền trà nghi lễ tổ chức rất trang nghiêm
        Thiền trà nghi lễ tổ chức rất trang nghiêm
     Chiêm ngưỡng kiến trúc chùa Trầm núi Ngũ hành Sơn
        Chiêm ngưỡng kiến trúc chùa Trầm núi Ngũ hành Sơn
     Thăm đảo Lý Sơ
        Thăm đảo Lý Sơ
     Kỳ vĩ Hoàng Sơn
        Kỳ vĩ Hoàng Sơn
     Ôm tay lái, xuyên đất Lào
        Ôm tay lái, xuyên đất Lào
     Thiền viện trên núi Bạch Mã
        Thiền viện trên núi Bạch Mã
     “Nấm đá” trong kiến trúc Phou Asa
        “Nấm đá” trong kiến trúc Phou Asa
     Kỳ ảo chùa hang đá không sư ở Lý Sơn
        Kỳ ảo chùa hang đá không sư ở Lý Sơn
     Khám phá Chùa Khleang - Ngôi cổ tự miền đất Sóc Trăng
        Khám phá Chùa Khleang - Ngôi cổ tự miền đất Sóc Trăng
     Kiên giang: Ra Phú Quốc... tắm suối
        Kiên giang: Ra Phú Quốc... tắm suối
     Di sản bên bờ Mekong
        Di sản bên bờ Mekong